Trong suốt chặng đường lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhân dân Yên thọ đã anh dũng đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, chống chọi với thiên tai, địch họa để mưu cầu sự sống, đêm lại sự bình yên cho dân làng. Cũng trong quá trình đó, các thế hệ người dân Yên Thọ luôn có ý thức gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp, tạo nên bản sắc riêng của vùng đất ven dòng Mã giang.
Yên Thọ là một trong 26 xã, thị trấn của huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Đây là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Các di chỉ khảo cổ được phát hiện ở Yên Thọ cho thấy sự phát triển rực rỡ của các nền văn hóa Cồn Chân Tiên, Đông Khối, Quỳ Chữ có cùng niên đại với các nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Tiếp đó là nền văn hóa Đông Sơn đã tỏa sáng rực rỡ trong thời đại của các vua Hùng. Ngày nay, sự hiện diện của miếu Khả Lao thôn – đền Đồng Cổ (nay là điểm du lịch Di tích Núi và đền Đồng Cổ) có lịch sử trên 4.000 năm ở xã là minh chứng tiêu biểu cho nền vawnn hóa lâu đời đã được tạo dựng trên quê hương Yên Thọ ngay từ thuở khai thiên lập địa.
Trong suốt chặng đường lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhân dân Yên thọ đã anh dũng đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, chống chọi với thiên tai, địch họa để mưu cầu sự sống, đêm lại sự bình yên cho dân làng. Cũng trong quá trình đó, các thế hệ người dân Yên Thọ luôn có ý thức gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp, tạo nên bản sắc riêng của vùng đất ven dòng Mã giang.
I. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ XÃ YÊN THỌ:
1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
Yên Thọ là một xã thuần nông nằm ở phía Tây Bắc của huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm huyện khoảng 12km. Địa bàn giáp ranh của xã:
- Phía Bắc giáp với xã Quý Lộc.
- Phía Nam giáp với xã Yên Trường .
- Phía Đông giáp xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc được ngăn cách bởi sông Mã.
- Phía Tây giáp với xã Yên Trung và xã Yên Lâm.
Tổng diện tích tự nhiên của xã có 720,39 ha; trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 419,34 ha chiếm 58,2% diện tích đất tự nhiên. Dân cư sống tập trung, phân bổ đều chạy dài theo dòng sông Mã. Toàn xã có 1623 hộ, dân số trung bình là 6087 khẩu, phân bổ ở 7 thôn; một thôn nằm cách xa trung tâm xã khoảng 03 km. Tại địa phương có 3 trường học gồm trường Mầm non, trường Tiểu học, trường THCS; có 02 đơn vị kinh tế là HTX dịch vụ sản xuất nông nghiệp và Quỹ Tín dụng Yên Thọ.
Xã có địa hình dốc từ sông Mã ra phía đồng, có núi đá vôi, có vùng trũng ở diện tích đất trồng trọt nên hay bị ngập lụt trong mùa mưa.
Yên Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với độ ẩm không khí trung bình hàng năm từ 65 – 68%, cao nhất từ tháng 2 đến tháng 4, độ ẩm không khí xấp xỉ 90%. Bình quân nhiệt độ trong năm dao động trong khoảng 22 – 250C và chia thành 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ cao nhất trong năm đạt 41 - 420C, thaaps nhaats t]f 6 - 80C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.900mm, mưa thường tập trung từ tháng 6 đến tháng 10.
Xã Yên Thọ cũng như các xã khác của huyện Yên Định chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính: gió màu Đông Bắc (thường xuất hiện vào đầu tháng 10 đến tháng 3 năm sau, mang theo mưa phùn, nhiệt độ xuống thấp, gió rét, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống) và gió Tây Nam (xuất hiện khoảng cuối tháng 4 đến tháng 9 mang theo không khí khô nóng)
Yên Thọ nằm bên bờ sông Mã. Hàng năm, nước sông dâng lên khi rút đi để lại một lượng lớn phù sa màu mỡ. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để nhân dân Yên thọ phát triển kinh tế nông nghiệp và giao lưu kinh tế, văn hóa – xã hội với các địa phương xung quanh bằng đường thủy.
Nhìn chung, điều kiện thời tiết trên địa bàn xã Yên Thọ thuận lợi cho sinh hoạt và các ngành sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp, thâm canh cây lương thực, cây rau màu, chăn nuôi. Tuy nhiên, những năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và sự khai thác quá mức của con người đã gây ra thiên tai và các hiện tượng bất thường gây bất lợi cho đời sống và sản xuất của nhân dân như lụt bão về mùa mưa, các đợt rét đậm, rét hại kéo dài về mùa đông, thiếu nước sinh hoạt, dịch bệnh phát sinh, ...
Là một xã thuần nông, cán bộ và nhân dân Yên Thọ giàu kinh nghiệm và sáng tạo trong lao động, sản xuất phát triển kinh tế; các ngành nghề, dịch vụ phát triển đa dạng, đặc biệt nghề mộc, thợ nề và chế biến lương thực, thực phẩm, buôn bán... đã thúc đẩy nền kinh tế của địa phương ngày một đi lên, đời sống của nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng được đổi mới.
Với những thuận lợi cơ bản về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã và đang tạo điều kiện cho Yên Thọ trong qua trình giao lưu, trao đổi hàng hóa, phát triển kinh tế và văn hóa – xã hội. Đặc biệt, trong thời kỳ đất nước đang tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhân dân Yên Thọ đã và đang phát huy tối đa những tiềm năng sẵn có, cùng nhân dân cả nước xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.
2. Tình hình kinh tế - xã hội:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, trong những năm gần đây, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên địa bàn ngày càng ổn định, xu thế đô thị hóa đang được các cấp, các ngành quan tâm và đã hình thành các điểm dân cư trung tâm, bám theo trục đường giao thông.
Trên địa bàn xã Yên Thọ có 47km đường giao thông, trong đó đường thôn xóm là 17km, liên xã là 3,1km, đường nội đồng là 26,9km. Hệ thống đường nối các thôn đã được cứng hóa 98% và được nâng cấp thường xuyên. Các tuyến đường liên xã phân phối khá hợp lý, tạo thành mạng lưới giao thông đi lại dễ dàng. Nhìn chung, hệ thống giao thông ở Yên Thọ đã đáp ứng được nhu cầu đi lại hàng ngày cũng như giao lưu kinh tế của nhân dân với các xã và các vùng lân cận.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy và các ban ngành đoàn thể, mạng lưới điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất cảu nhân dân xã Yên Thọ đã được hoàn thiện. Trạm y tế xã với đội ngũ cán bộ có trình độ, nhiệt tình trong công tác, đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân.
Yên Thọ có nguồn lao động dồi dào, có sức khỏe và trình độ văn hóa, được phân bố đều trong các xóm. Đây là nguồn nhân lực quý báu và quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, từng bước thay đổi diện mạo quê hương.
Cơ cấu nền kinh tế của xã bao gồm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại, trong đó nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Những năm qua, nhờ có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân cùng với sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân, khắc phục những khó khăn về thời tiết, thiên tai, sâu bệnh, áp dụng khoa học - kĩ thuật vào sản xuất, mở rộng diện tích cây trồng vụ đông nên đã tăng hiệu quả sử dụng đất, nâng cao năng suất cây trồng.
Ngoài sản xuất nông nghiệp lúa nước, ở Yên Thọ, các hoạt động chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp với các giống bò, gà, lợn khá phát triển, góp phần nâng cao thu nhập của người dân. Việc phát triển các trang trại, gia trại với nhiều giống cây trồng, vật nuôi trong thời gian gần đây là một điểm nhấn trong phát triển kinh tế ở Yên Thọ.
Các hoạt động dịch vụ thương mại đều được quan tâm, phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Sản xuất Công nghiệp - TTCN phát triển đa dạng phong phú như: Xây dựng, sản xuất đồ gỗ, nghề cơ khí, may mặc, chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất gạch xây dựng, làm công nhân ở các khu công nghiệp... đã làm tăng thu nhập cho người lao động và góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Dịch vụ phát triển đa dạng phong phú dưới nhiều hình thức như: thu mua lương thực, thực phẩm, nông sản; cung ứng vật tư, phân bón, vật liệu xây dựng và các hàng tạp hoá, … đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt trong nhân dân.
Những năm qua, nhân dân Yên Thọ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, bước đầu thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, chất lượng cuộc sống được cải thiện rõ rệt. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử nhưng nhân dân trong xã luôn đoàn kết, thương yêu, giúp nhau vượt qua khó khăn, gian khổ. Những thành tựu đạt được là điều kiện thuận lợi để Yên Thọ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế - xã hội trên quê hương.
3. Truyền thống lịch sử, văn hóa
Yên Thọ là vùng đất có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời. Người dân Yên Thọ từ xưa đã có đời sống văn hóa tinh thần rất phong phú. Ngay từ những ngày đầu sinh sống trên địa bàn xã, nhân dân Yên Thọ không ngừng chắt chiu xây dựng, tôn tạo các công trình văn hóa như các đình, chùa, miếu... Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, những biến động của xã hội, các dấu tích văn hóa, lịch sử của cha ông còn được lưu giữ ở Yên Thọ là minh chứng cụ thể, sinh động cho bề dày văn hóa và sức sống bất diệt của con người nơi đây.
Ở xã có đền Đồng Cổ, làng Đan Nê, thờ thần trống đồng – thần có công giúp vua Hùng đánh thắng giặc Hồ Tôn; các văn chỉ, võ chỉ; khu di tích lịch sử văn hóa đền Cao Sơn ở làng Tu Mục, nghè Tân Lộc, phủ mẫu Tân Giáp ... Đây là những địa điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tập thể. Vào những ngày rằm, mồng một, ngày lễ tết, lễ hội, các cụ cao niên trong làng thường tới đây để cúng tế, cầu cho quốc thái dân an.
Song song với đời sống văn hóa tâm linh, người dân Yên Thọ còn rất quan tâm đến sinh hoạt lễ hội văn hóa. Hàng năm, ở Yên Thọ diễn ra 04 lễ hội, tập trung vào mùa Xuân, từ tháng Giêng đến tháng Ba âm lịch. Đó là: Lễ hội Kỳ Phúc Núi và đền Đồng Cổ (ngày 14, 15 – 3 âm lịch); lễ hội Nghè Tân Lộc (ngày 20 tháng Giêng); lễ hội Bách tính làng Tu Mục (ngày 24 tháng Giêng); lễ hội Phủ Mẫu Tân Giáp (ngày 03/3 âm lịch). Lễ hội ở Yên Thọ được đúc kết qua quá trình lịch sử lâu dài và là sinh hoạt chung của cả cộng đồng, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Sinh hoạt tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Yên Thọ. Cũng như nhiều xã khác của huyện Yên Định, ở Yên Thọ có tôn giáo là Thiên chú giáo. Bộ phận người dân theo đạo Thiên Chúa giáo tập trung chủ yếu ở thôn 12 cũ (nay thuộc thôn Tân Lộc 2), và đều là công giáo toàn tòng, ở thôn 11 cũ (nay là thôn Xuân Thái) có sự kết hợp 2 bên lương - giáo. Tính chung trong toàn xã có 117 hộ (số hộ có mặt ở nhà) theo đạo Thiên Chúa giáo. Bên cạnh đó, cũng như nhiều vùng quê khác, người dân Yên Thọ còn thờ cúng các vị thần, các anh hùng dân tộc, thờ cúng tổ tiên.
Bên cạnh những đặc trưng riêng về văn hóa, Yên Thọ còn là nơi hội tụ của những truyền thống tốt đẹp, được nhân dân đoàn kết, chung sức chung lòng tạo dựng từ hàng ngàn năm nay, đó là: truyền thống lao động, sáng tạo; truyền thống hiếu học; truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, ...
4. Tài nguyên du lịch:
Trên cơ sở truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, với nhiều lễ hội mang tính đặc trưng riêng, Yên Thọ cũng có nguồn tài nguyên du lịch dồi dào, đang và sẽ được khai thác mạnh mẽ hơn trong thời gian tới. Đó là điểm du lịch Di tích Núi và đền Đồng Cổ, làng Đan Nê, nơi có phong cảnh sơn thủy hữu tình, với những giai thoại lịch sử gắn với những giai đoạn lịch sử của đất nước.
II. GIỚI THIỆU VỀ ĐIỂM DU LỊCH DI TÍCH NÚI VÀ ĐỀN ĐỒNG CỔ:
1. Diện tích: (m2): 107 697 m2
2. Địa chỉ: Thôn Đan Nê 1, xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
3. Di tích đã được xếp hạng: Di tích lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 51 năm 2001..
4. Di tích lịch sử văn hóa Núi và đền Đồng Cổ xã Yên Thọ được công nhận là Điểm du lịch của tỉnh Thanh Hóa theo Quyết định số 2260/QĐ-UBND ngày 12/6/2019 của UBND tỉnh Thanh Hóa.
5. Giới thiệu về điểm du lịch Di tích Núi và đền Đồng Cổ:
Đền Đồng Cổ là một trong những di tích lịch sử - văn hóa của huyện Yên Định, là một trong những ngôi đền linh thiêng có lịch sử lâu đời nhất xứ Thanh.
Ngôi đền tọa lạc ở một địa thế đẹp, có phong cảnh sơn thủy hữu tình, cách Trung tâm thành phố Thanh Hóa về phía Tây chừng 40 km, cách huyện lỵ Yên Định chừng 12 km theo quốc lộ 45 hướng Tây Bắc, và cách cầu Hàm Rồng theo đường sông Mã chừng 47 km, cùng với di tích Lam Kinh, thành nhà Hồ, Đông Sơn,… đã tạo thành quần thể di tích lịch sử - văn hóa có bề dày truyền thống lâu đời của xứ Thanh.
Đền Đồng Cổ được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia năm 2001.
Ai về Đồng Cổ Đan Nê
Thăm hồ Bán nguyệt bốn bề non cao
Hồ tiên thiên cổ ai đào
Để cho mặc khách bước vào bồng lai
Nơi đây có động Tam Thai
Trống trời còn vọng non đoài xứ Thanh.
Hàng năm, vào ngày 14, 15 tháng 3 âm lịch, chính quyền địa phương nơi đây tổ chức lễ hội kỳ phúc Núi và Đền Đồng Cổ để tưởng nhớ vị thần đã có công “Hộ dân bảo quốc”
Theo truyền thuyết, thần Đồng Cổ hay còn được gọi là thần Trống đồng, là vị thần được thờ ở Đền Đồng Cổ thuộc núi Đồng Cổ (Núi Khả Lao), làng Đan Nê, xã Yên Thọ, tỉnh Thanh Hóa.
Núi Đồng Cổ hiện nay đã được các nhà nghiên cứu tìm ra, đó là 1 cụm có 3 ngọn núi có tên là Tam Thai, vì núi nổi lên 3 ngọn đá cao thấp liền nhau, như hình dáng 3 vì sao.
Tổng diện tích của khu di tích khoảng 11 ha, được bao quanh bởi 3 ngọn núi, trong lòng núi là khu vực đền và hồ Bán nguyệt.
Lịch sử ngôi đền ở Thượng Điện đã ghi: “Miếu Đồng Cổ được khởi dựng từ thời Hùng Vương (2569 – trước Công nguyên), đến thời Lý (1020) miếu được sửa sang lại, sang thời Lê - Trịnh (1630), miếu được xây dựng khang trang, to đẹp hơn… Miếu thờ thần núi Đồng Cổ rất hiển linh, vị thần đã giúp các triều đại đánh thắng giặc ngoại xâm và diệt trừ phản loạn...”. Trải qua năm tháng, miếu bị hư hỏng, bị chiến tranh hủy hoại.
Nhờ ánh sáng văn hóa của Đảng mang lại trong công cuộc đổi mới, năm 1993, Đền được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa, thắng cảnh cấp tỉnh.
Năm 1996, nhân dân trong xã và bà con xa quê đóng góp xây dựng lại miếu đường để tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ.
Năm 2001, đền được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Năm 2007, UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt dự án bảo tồn, tôn tạo Khu di tích Núi và đền Đồng Cổ theo 2 giai đoạn với tổng kinh phí dự toán trên 35 tỷ đồng.
Năm 2008, bắt đầu khởi công xây dựng.
Tháng 2 năm 2010, khánh thành giai đoạn 1 và gắn biển công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Hà Nội.
Kiến trúc ngôi đền được xây dựng theo kiểu thời nhà Lý: Tiền điện gồm 2 tầng, 8 mái, 5 gian, 1 ban thờ thần Đồng Cổ. Phía dưới là Thượng điện gồm: 3 gian, 3 bàn thờ thần Đồng Cổ và những vị anh hùng có công lao trong sự nghiệp đánh giặc bảo vệ đất nước. Sau cùng là Hậu cung, được bố cục với kiến trúc gọn gàng và cổ kính.
Truyền thuyết kể rằng, vua Hùng đi đánh giặc ở Hồ Tôn. Khi đến chân núi Khả Lao (nay là làng Đan Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa), đại quân nghỉ chân ở đây. Đêm đến nhà vua mộng gặp thần núi xin có trống đồng, dùi đồng giúp nhà vua đánh thắng giặc. Ngày mai tỉnh dậy, khi đánh trận với giặc nghe trên không ầm vang tiếng trống đến đâu, quân giặc khiếp vía bỏ chạy đến đấy. Quân ta thắng trận trở về. Vua Hùng vào đền làm lễ tạ ơn, cho đúc trống đồng và phong cho thần là “Đồng Cổ Đại Vương”.
Vào năm 986, Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn đi dẹp giặc Chiêm Thành ở phương Nam, khi đến sông Ba Hòa (Tĩnh Gia, Thanh Hóa) gặp mưa to, gió lớn, thuyền bè không đi được. Thần Đồng Cổ hiện lên báo mộng và giúp sức, Lê Hoàn chắp tay tế lạy, trời liền quang mây, gió liền ngưng thổi. Đoàn thuyền tiếp tục Nam tiến. Thắng trận trở về, Lê Hoàn đã vào đền tạ lễ và ghi câu đối:
Long Đình hiển tích Tam Thai lĩnh
Mã Thủy thanh lai bán nguyệt hồ
Vào năm 1020, Thái tử Lý Phật Mã (sau này là vua Lý Thái Tông) vâng mệnh vua cha kéo quân từ Thăng Long vào phía nam đánh giặc Chiêm Thành, dừng chân nghỉ tại khu vực miếu thờ núi Đồng Cổ thuộc làng Đan Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Đến giờ Tý (khoảng 23 giờ đến 1 giờ sáng), Thái tử mơ thấy có người hiện ra khuôn mặt phong sương, râu cứng, mặc áo giáp bào, tay cầm binh khí đứng trước mặt mình và nói: “Ngài đi đánh giặc, tôi giúp một tay”. Sáng hôm sau, Thái tử Phật Mã đem quân đánh đến đất Quảng Bình thì giặc tan. Thắng trận trở về, Thái tử đến núi Đồng Cổ sai quân dọn dẹp miếu thờ, sắm lễ tạ và xin rước linh vị về Thăng Long, Hà Nội thờ phụng để giúp dân giữ nước. Bởi vậy, không chỉ ở Thanh Hóa có đền thờ thần Đồng Cổ mà ở Hà Nội cũng có 1 ngôi đền thờ ngài, cũng gọi là đền Đồng Cổ (nay ở phường Bưởi, quận Tây Hồ, TP. Hà Nội).
“…Tám năm sau (năm 1028), trước hôm vua Lý Thái Tổ qua đời một ngày (mùng 3 tháng 3 âm lịch), thần Đồng Cổ lại báo mộng rằng sắp có loạn Tam Vương. Quả nhiên, khi Lý Thái Tổ vừa băng hà, ba con trai là Đông Chinh Vương, Vũ Đức Vương và Dực Thánh Vương đưa quân vào ém trong Cấm Thành, toan đánh úp. Do có phòng bị, lại được các tướng Lê Phụng Hiểu, Lê Nhân Nghĩa giúp nên Thái tử đã dẹp được cuộc nổi loạn này”.
Từ ấy, mỗi năm 1 lần vào ngày 4/4 âm lịch, Nhà vua ban chiếu lập đàn treo cờ tại đền Đồng Cổ, bắt các hoàng thân quốc thích và tất cả triều thần tới đền, đứng trước thần vị, đọc lời thề rằng:
“Làm tôi bất trung
Làm con bất hiếu
Thần minh tru diệt”.
Cũng như bây giờ Bác Hồ đã dạy chúng ta là phải Trung với nước, Hiếu với dân.
Hội thề Trung Hiếu có từ đấy và đền Đồng Cổ ở Thăng Long, Hà Nội cũng có nguồn gốc phát tích từ đến Đồng Cổ làng Đan Nê, Yên Thọ, Yên Định, Thanh Hóa.
Đền Đồng Cổ xã Yên Thọ vốn là nơi diễn ra các nghi lễ của các triều đại vua chúa nước ta nên trong đền còn có rất nhiều thần tích, sắc phong của các triều đại.
Trước sân rồng của đền có Hồ Bán Nguyệt như một tấm gương soi mây trời lồng bóng núi. Nước từ hồ chảy thông qua chân núi ra đến sông Mã. Bên kia hồ là 2 tấm bia đá, cheo leo giữa sườn núi, 1 tấm ghi bằng chữ Pháp (bên trái), 1 tấm ghi bằng chữ Hán (bên phải) đều ca ngợi vẻ đẹp phong cảnh sơn thủy hữu tình nơi đây, công lao và lòng thành kính đối với ngôi đền.
Những di tích nguyên gốc còn lại đến ngày nay ngoài 2 tấm bia kể trên chỉ còn chiếc miếu nhỏ lưng chừng đỉnh núi (tức quán Triều Thiên) và chiếc cổng Nghinh môn.
Cổng nghinh môn gồm 3 tầng, 8 mái mang phong cách kiến trúc thế kỷ 15, cao 9m, rộng 3m, được ghép bằng những khối đá vuông vức (không dùng vữa) cuốn thành vòm tò vò.
Ở lưng chừng núi có chùa Thanh Nguyên, phía trên gần ngọn núi có quán Triều Thiên:
Trèo lên thăm quán Triều Thiên
Ngắm nhìn sông núi, cảnh tiên non bồng
Thanh Long, bên ấy Hồ Công
Bên đây Bạch Hổ, núi Thung, giếng trời
...
Từ đỉnh quán Triều Thiên nhìn xuống, chúng ta như bị lạc vào thế giới bồng lai tiên cảnh. Từ đây nhìn xuống 4 phương cả một vùng đất trời, làng mạc, núi sông bao quanh như một bức tranh vẽ hoàn hảo, lung linh đủ màu sắc trong lúc ban mai hay lúc chiều tà. Tương truyền, quán Triều Thiên là nơi giao cảm giữa lời khẩn cầu của con người với trời đất. Mỗi khi trong làng có việc hệ trọng cần sự phù trợ của đấng tối cao, người dân sẽ gióng lên tiếng trống Sấm và lập đàn cầu tế trên quán Triều Thiên để mọi sự được hanh thông, tai qua nạn khỏi.
Động Ích Minh
Bên phải đền có động Ích Minh. Trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, thanh niên trai tráng trong làng đi tham gia kháng chiến, trước khi đi các thanh niên tập trung vào Đền thắp hương xin thần phù hộ, sau đó tất cả đi theo đường hang ra sông để xuống thuyền nên còn gọi là hang Tòng Quân. Đây còn là nơi sản xuất vũ khí trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Hang Bà Lung (Hang Nội)
Bên trái đền cũng có 1 cái hang, ngày xưa gọi là hang Bà Lung, sau năm 1945, công binh xưởng về đây lấy hang làm nơi sản xuất vũ khí nên còn được gọi là hang công binh xưởng.
Đến năm 1964, 1965 giặc Mỹ đánh phá miền Bắc, nhà máy điện Hàm Rồng chuyển về hang này để phát điện cho cả tỉnh Thanh Hóa.
Ngày xưa, xung quanh ba ngọn núi đá bao quanh đền là rừng cây nguyên sinh rậm rạp, nhiều cây to, có nhiều chim thú. Nhưng qua biết bao biến đổi, nay chỉ còn những ngọn núi đá với cây mọc tái sinh tầng thấp. Dù nằm khá gần đường lớn dân sinh, nhưng ở nơi sông núi bao quanh, non nước hữu tình, chim chóc hoan ca, hoa rừng đua nở thì người ta có cảm giác khu di tích Núi và Đền Đồng Cổ ngàn vạn năm vẫn như vậy, là chốn linh sơn nghỉ chân của vị thần tối linh.
Trước đây, trong đền có cỗ trống đồng lớn, nhưng đến thời Lê mạt bị mất. Sang thời Tây Sơn, khoảng năm 1976, trấn thủ Thanh Hóa là Nguyễn Quang Bàn đã cúng vào đền một trống đồng mà ông tìm thấy ở một bờ sông. Ông có làm một bài tán khắc trên biển gỗ sơn son thiếp vàng kể lại sự việc cung tiến trống đồng. Có một bài báo nói rằng, một người trong đoàn ngoại giao nước ta khi vào bảo tàng Paris, Pháp thấy nguyên bản chiếc trống đồng có đề Trống đồng Đan Nê, Thanh Hóa, năm 1932. Ông đã chụp lại ảnh và sau này đúc được trống đồng theo mẫu ấy dâng tặng đền Đồng Cổ.
Những nghệ nhân đúc đồng xứ Thanh hàng năm thường lên dâng hương tạ lễ thần Đồng Cổ để mong ngài phù hộ độ trì cho sự nghiệp được hanh thông. Nhất là những dịp có sự kiện lớn như: Đúc trống phục vụ đại lễ, đưa trống cung tiến lên đình, đền, đúc trống có độ lớn kỷ lục... Để công việc được thuận lợi, thành công, các nghệ nhân đều lên đền Đồng Cổ để làm lễ tế cáo với thần, xin rước lửa thiêng của đền về để chập lò đúc trống. Mỗi lần đúc xong, Trống đồng lại được đưa lên đền Đồng Cổ để làm lễ nhập linh. Bởi vậy, khi trống được đưa đi cung tiến, dâng tặng đều có lễ nghênh rước cẩn trọng. Mỗi chiếc trống đồng trưng bày ở đâu cũng được đặt ở vị trí trang trọng nhất.
Ngày nay, đền Đồng Cổ ở làng Đan Nê, xã Yên Thọ trở thành điểm đến tâm linh đầy sức hút. Đây thực sự là di tích lịch sử - văn hóa có giá trị đặc biệt với người dân Việt Nam, là nơi linh thiêng thắp hương cầu nguyện của du khách trong và ngoài nước mỗi dịp xuân về.
Đây cũng là điểm tham quan thưởng ngoạn không gian sơn thủy hữu tình với những câu chuyện nhuốm màu huyền thoại, thể hiện khát vọng độc lập, hòa bình, tinh thần thượng võ và ý chí quật cường của cha ông ta trên hành trình dựng nước và giữ nước từ thời đại vua Hùng cho đến thời đại Hồ Chí Minh. Đến bây giờ, chúng ta đang phát huy truyền thống này trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc, xây dựng 1 nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sự linh thiêng suốt hơn mấy ngàn năm lịch sử sẽ còn lắng đọng mãi cho đến muôn đời sau.
ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ YÊN THỌ